VĂN PHÒNG THỪA PHÁT LẠI SÀI GÒN (SBO)
- 24 (Tầng trệt) Khổng Tử, Phường Bình Thọ, TP. Thủ Đức, TP.Hồ Chí Minh
- 0834 112 115 - 0989 113 216
- [email protected]
Trong hoạt động tố tụng và các quan hệ pháp lý dân sự, chứng cứ luôn đóng vai trò trung tâm, là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xác định sự thật khách quan của vụ việc. Tuy nhiên, không phải mọi tài liệu mà đương sự cung cấp đều được xem là chứng cứ hợp pháp. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thương mại đang phát triển một cách mạnh mẽ như hiện nay, thì việc các cơ quan Tòa án hay Hội đồng Trọng tài thường xuyên sử dụng nguồn chứng cứ điện tử để làm căn cứ khi giải quyết vụ việc dân sự là rất phổ biến, đó có thể là các hộp thư điện tử email trao đổi giữa hai bên, tin nhắn trên ứng dụng mạng xã hội,… Tuy nhiên, các đương sự cần thực hiện việc thu thập và cung cấp chứng cứ điện tử như thế nào cho phù hợp với quy định pháp luật, đảm bảo tính pháp lý để các cơ quan Tòa án hay Hội đồng Trọng tài có thể sử dụng để làm căn cứ phán quyết vụ việc?
Trong thời gian gần đây, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 197/2025/QĐ-PQTT ngày 26/6/2025 về việc hủy phán quyết trọng tài với những nhận định như sau:
“[4] Về nội dung: Xét người yêu cầu Công ty H3 cho rằng: Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể: Hội đồng trọng tài đã sử dụng các chứng cứ chưa được xác thực là các email không được lập vi bằng; ... Đây là vấn đề cần xem xét.
[4.1] Về yêu cầu của Công ty H3 cho rằng Hội đồng trọng tài đã sử dụng các chứng cứ chưa được xác thực là các email không được lập vi bằng và không triệu tập người làm chứng theo đơn yêu cầu của Công ty H3, Xét: Hội đồng trọng tài đã sử dụng các email không có trong vi bằng mà Công ty K cung cấp cho Hội đồng trọng tài để làm căn cứ giải quyết vụ việc. Hội đồng trọng tài đã đưa ra các nhận định từ mục: 90.2; 90.3; 90.4; 90.5; 90.6; 90.7; 90.9; 90.12; 98.5; 98.6; 98.7 (là các email trao đổi giữa hai bên) và nhận định các email này là chứng cứ quan trọng để chấp nhận yêu cầu khởi Công ty First Green. Căn cứ vào khoản 1 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận” và theo Điều 3 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định về "Chứng minh và chứng cứ" của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định: “ a) Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. -b) Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó,… Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ”. Đồng thời, Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác - 2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ”. Trong vụ tranh chấp này, Công ty K đã cung cấp cho Hội đồng trọng tài một số email để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, cụ thể được nhận định trong Phán quyết trọng tài từ mục 90.2; 90.3; 90.4; 90.5; 90.6; 90.7; 90.9; 90.12; 98.5; 98.6; 98.7. Mặc dù, các email này chưa đảm bảo giá trị về hình thức, nguồn gốc trích dẫn, không được lập vi bằng,.. không xuất trình được văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu này. Đồng thời, các email này cũng không được Công ty H3 thừa nhận nhưng Hội đồng trọng tài vẫn dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ tranh chấp là chưa thỏa đáng, chưa đánh giá một cách khách quan, toàn diện làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 4 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” và khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010: “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”.
Hơn nữa, các email này Công ty K không gửi trực tiếp cho đại diện theo pháp luật của Công ty H3 mà gửi cho các ông bà là ông Tuấn D, bà Trâm A, ông Timothy T1. Công ty F cho rằng những người này là nhân sự của Công ty H3 nhưng không có tài liệu gì chứng minh. Công ty H3 thì cho rằng những người này không phải là nhân sự của Công ty H3 nên truwosc khi mở phiên họp, tại các phiên làm việc và phiên họp Công ty H3 đã có văn bản đề nghị Hội đồng trọng tài cho triệu tập những người liên quan trên nhưng Hội đồng trọng tài không xem xét, mặc nhiên chấp nhận các email không rõ nguồn gốc, xuất xứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty K là vi phạm nguyên tắc bình đẳng, khách quan, vô tư khi đánh giá và sử dụng chứng cứ trong việc giải quyết vụ tranh chấp.”
Theo nhận định trên của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, việc Hội đồng trọng tài sử dụng nội dung email chưa được lập vi bằng (không đảm bảo về hình thức, không xác định được rõ nguồn gốc, xuất xứ và tính xác thực của các email này) để làm căn cứ phán quyết là chưa thỏa đáng, chưa đánh giá một cách khách quan, toàn diện làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài, vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Chính vì thế, việc yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận nội dung các dữ liệu điện tử như email, tin nhắn trên ứng dụng Zalo, Messenger, Viber… là rất cần thiết, nhằm xác định rõ nguồn gốc, tính xác thực cũng như đảm bảo về mặt trình tự, thủ tục, hình thức của chứng cứ khi cung cấp cho các cơ quan chức năng để sử dụng làm chứng cứ khi xem xét, giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật.
Hình ảnh minh họa
Thừa phát lại bằng kinh nghiệm và kỹ năng nghiệp vụ của mình sẽ thực hiện việc lập vi bằng theo những quy trình chuyên biệt đối với những dữ liệu điện tử nêu trên, không chỉ đảm bảo tính hợp pháp, trung thực, khách quan và toàn vẹn của chứng cứ, mà còn đầy đủ, rõ ràng về mặt hình thức.
Quý khách hàng có nhu cầu lập vi bằng nhằm xác lập chứng cứ, hãy liên hệ ngay với Văn phòng Thừa phát lại Sài Gòn qua các kênh:
Hotline: 0834.112.115
Email: [email protected]
Website: thuaphatlaisaigon.vn
Facebook: facebook.com/vanphongthuaphatlai
Hoặc đến trực tiếp Văn phòng Thừa phát lại Sài Gòn tại địa chỉ 24 Khổng Tử, Phường Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
Phan Như
Luật pháp là vấn đề phức tạp. Nó có thể gây ra cho bạn một vấn đề lớn nếu bạn bỏ qua nó. Hãy để chúng tôi giúp bạn!