Quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng theo quy định tại Luật số 96/2025/QH15

Thứ tư, 22/10/2025, 15:09 GMT+7

Ngày 27/6/2025, Quốc hội chính thức ban hành Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 96/2025/QH15) sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Luật Các tổ chức tín dụng 2024, có hiệu lực từ ngày 15/10/2025. Theo đó chính thức trao quyền cho Tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Tổ chức mua bán, xử lý nợ được thu giữ tài sản bảo đảm cho khoản vay nếu khách hàng vi phạm nghĩa vụ. Điều này có ý nghĩa lớn đối với ngành tài chính ngân hàng trong giải quyết nợ xấu, đồng thời nâng cao ý thức người đi vay. Cụ thể tại khoản 2, Điều 1 quy định cụ thể quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng như sau:

“2. Bổ sung các điều 198a, 198b và 198c vào sau Điều 198 như sau:

Điều 198a. Quyền thu giữ tài sản bảo đảm

...

2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng các điều kiện sau đây:

a) Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự;

b) Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;

c) Biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;

d) Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản;

đ) Tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ;

e) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều này.

3. Chậm nhất 15 ngày trước ngày tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải thực hiện thủ tục công khai thông tin về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ. Việc công khai thông tin được thực hiện dưới các hình thức sau đây:

a) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;

b) Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;

c) Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;

d) Thông báo cho bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có) theo phương thức thông báo đã thỏa thuận tại hợp đồng bảo đảm.

Trường hợp không có thỏa thuận thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ gửi trực tiếp văn bản thông báo cho bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có) hoặc thông qua ủy quyền, dịch vụ bưu chính, phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu hoặc phương thức khác theo các thông tin, địa chỉ do bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm cung cấp.

Trường hợp bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có) thay đổi địa chỉ mà không thông báo cho bên nhận bảo đảm biết thì địa chỉ của bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm được xác định theo địa chỉ đã được các bên này cung cấp trước đó theo hợp đồng bảo đảm hoặc theo thông tin được lưu trữ tại cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm.

4. Trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là động sản, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải thực hiện thủ tục công khai thông tin về tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ. Việc công khai thông tin được thực hiện dưới các hình thức sau đây:

a) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;

b) Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan Công an cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm;

c) Thông báo cho bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có) theo phương thức thông báo đã thoả thuận tại hợp đồng bảo đảm.

Trường hợp không có thỏa thuận thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ gửi trực tiếp văn bản thông báo cho bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có) hoặc thông qua ủy quyền, dịch vụ bưu chính, phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu hoặc phương thức khác theo các thông tin, địa chỉ do bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm cung cấp.

Trường hợp bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có) thay đổi địa chỉ mà không thông báo cho bên nhận bảo đảm biết thì địa chỉ của bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm được xác định theo địa chỉ đã được các bên này cung cấp trước đó theo hợp đồng bảo đảm hoặc theo thông tin được lưu trữ tại cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm.

....”

Kể từ thời điểm Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng hết hiệu lực thi hành (Nghị quyết này được Quốc hội ban hành vào ngày 21/6/2017, có hiệu lực từ ngày 15/8/2017 và hết hiệu lực vào cuối năm 2023), thì trong những năm vừa qua, nợ xấu luôn là “vết gợn” lớn nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Khi người vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán, cố tình chây ì trả nợ, kéo dài thời gian, thì ngân hàng không được tự ý xử lý tài sản bảo đảm mà buộc phải khởi kiện ra tòa án, chờ bản án, quyết định có hiệu lực và tiếp tục chờ thi hành án dân sự để thu hồi tài sản.

Kể từ ngày 15/10/2025, các tổ chức tín dụng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Luật số 96/2025/QH15 mà không cần phải chờ đến thủ tục khởi kiện tài Tòa án và thi hành án dân như trước đây. Khi xác định đó là tài sản được phép thu giữ để xử lý nợ, đối với tài sản thu giữ là bất động sản, các tổ chức tín dụng phải thực hiện thủ tục thông báo về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ cho bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có). Để có cơ sở xác định việc thực hiện nghĩa vụ thông báo nêu trên, tránh trường hợp tranh chấp phát sinh xảy ra về sau liên quan đến thủ tục thông báo, các tổ chức tín dụng nên yêu cầu Thừa phát lại lập Vi bằng ghi nhận sự kiện gửi văn bản thông báo cho bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm (nếu có).

Vi bằng ghi nhận việc giao, gửi văn bản thông báo có giá trị là nguồn chứng cứ, chứng minh rằng các tổ chức tín dụng đã thực hiện việc giao, gửi văn bản thông báo cho đối tượng cần nhận thông tin. Bằng kỹ năng nghiệp vụ của mình, Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến và ghi nhận một cách khách quan, trung thực sự việc, quá trình các tổ chức tín dụng thực hiện việc giao, gửi văn bản thông báo bằng các hình thức như: gửi trực tiếp theo địa chỉ trên hợp đồng bảo đảm, thông qua dịch vụ bưu chính, phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu hoặc phương thức thông báo mà các bên đã thoả thuận tại hợp đồng bảo đảm.

Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm, các tổ chức tín dụng có thể yêu cầu Thừa phát lại lập Vi bằng ghi nhận toàn bộ diễn biến và quá trình diễn ra sự kiện thu giữ tại địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm.

Giá trị pháp lý của Vi bằng:

Khoản 3 Điều 36 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định như sau: “Vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật”.

Quý khách hàng có nhu cầu lập vi bằng nhằm xác lập chứng cứ, hãy liên hệ ngay với Văn phòng Thừa phát lại Sài Gòn qua các kênh:

Hotline: 0834.112.115

Email: [email protected]

Website: thuaphatlaisaigon.vn

Facebook: facebook.com/vanphongthuaphatlai

Hoặc đến trực tiếp Văn phòng Thừa phát lại Sài Gòn tại địa chỉ 24 Khổng Tử, Phường Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xem toàn văn Luật số 96/2025/QH15 tại đây

Phan Như

Bạn cần tư vấn?

Luật pháp là vấn đề phức tạp. Nó có thể gây ra cho bạn một vấn đề lớn nếu bạn bỏ qua nó. Hãy để chúng tôi giúp bạn!